Sinh sản là một quá trình sinh học của mọi cơ thể vật nuôi nhằm bảo tồn và phát triển nòi giống, đồng thời là chức năng tái sản xuất của vật nuôi. Sinh sản hữu tính là hình thức sinh sản tạo ra cơ thể mới có sự tham gia của 2 giao tử đực và cái, hình thức này luôn kèm theo sự tổ hợp vật chất di truyền (ở vật nuôi giao tử đực chính là tinh trùng, còn giao tử cái là trứng). Khi tinh trùng kết hợp với trứng để tạo thành hợp tử thì nó đã mang các vật chất di truyền của cả con dực và con cái. 2. Tình hình sinh sản ở vật nuôi 1.2. Tình hình sinh sản của vật nuôi trên thế giới Tình hình sinh sản của vật nuôi trên thế giới có thể chia ra làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1. Kể từ con người thuần hoá vật nuôi và cho chúng sinh sản theo phương thức truyền thống. Giai đoạn 2. Kể từ khi con người áp dụng những khoa học kỹ thuật tiến tiến cho vật nuôi như thụ tinh nhân tạo, gây động dục và cho chửa đẻ đồng loạt, cấy truyền phôi, thụ tinh trong ống nghiệm, xác định giới tinh tinh trùng và phôi, chuyển gen hay nhân bản (cloning). Việc ứng dụng các công nghệ sinh học vào sinh sản vật nuôi đã làm tăng khả năng sinh sản của vật nuôi cũng như những lợi ích kinh tế một cách đáng kể. 2.2. Tình hình sinh sản của vật nuôi ở Việt Nam Sinh sản của vật nuôi ở Việt Nam cũng nằm trong quy luật phát triển khoa học công nghệ thế giới. Các kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, nhất là đối với bò và lợn đã phát huy hiệu quả tích cực ở nước ta. Ước tính gần 100% bò sữa và 40% lợn cái được thụ tinh nhân tạo. Thụ tinh nhân tạo đã làm tăng hiệu quả sử dụng tinh dịch những đực giống quý, do đó cải tiến nhanh tốc độ di truyền cho quần thể vật nuôi.